JUSTICE FOR MULTILINGUAL
- Belle Hoang
- Jul 1, 2021
- 6 min read
Updated: Sep 29, 2021
Bilingual hay Multilingual chỉ người có khả năng sử dụng hai hay nhiều ngoại ngữ. Hiện tượng xã hội này bắt nguồn từ nhu cầu toàn cầu hoá và sự cởi mở về văn hoá. Nhờ sự dễ dàng tiếp cận thông tin bằng Internet, việc tiếp xúc với nhiều ngôn ngữ của các cá nhân ngày càng trở nên phổ biến rộng rãi. Mặt khác, điều này lại đem đến một số ý kiến trái chiều ở Việt Nam khi một bộ phận người trong cộng đồng đa ngôn ngữ sử dụng tiếng mẹ đẻ chêm thêm tiếng Anh thì bị cho là đang tỏ vẻ thuợng đẳng, khoe khoang, không tôn trọng người nghe, hay không giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt? Đây là những định kiến đã tồn tại từ lâu và còn gây tranh cãi đến thời điểm hiện tại. Vậy hiện tượng “nửa nạc nửa mỡ” này hình thành như thế nào?

Ảnh: The New York Times
Tiếng Anh bồi từ đâu mà ra?
Nghiên cứu cho rằng, một người có khả năng nói nhiều hơn một thứ tiếng tốn nhiều thời gian trong giao tiếp hơn so với người chỉ nói một thứ tiếng. Nguyên do là vì khi giao tiếp, não của một người đa ngữ sẽ có hai mạng lưới thần kinh cùng được kích hoạt thay vì chỉ một như người đơn ngữ. Ví dụ: khi nhắc đến từ “nhẫn”, sẽ có hai từ được kích hoạt trong não của một bilingual. Một là, “cái nhẫn” hay “nhẫn nại”, “kiên nhẫn” trong tiếng Việt. Hai là, “ring” trong tiếng Anh vì bạn từng coi bộ phim Lord of the Rings chẳng hạn. Bilingual sẽ lúng túng và mất nhiều thời gian hơn vì não phải phân tích đưa ra lựa chọn đâu mới là mạng lưới thích hợp với hoàn cảnh và mục đích của cuộc trò chuyện. Thường thì để đỡ mất thời gian, người nói có xu hướng lựa chọn mạng lưới ngôn ngữ xuất hiện đầu tiên trong đầu mình. Đây cũng là nguyên nhân chính cho việc nhiều người chêm ngôn ngữ này vào ngôn ngữ kia. Cá nhân tôi cho rằng đây là hiện tượng hoàn toàn tự nhiên, mặc dù người nói hoàn toàn có quyền kiểm soát lựa chọn ngôn ngữ, nhưng nó sẽ mất đi sự tự nhiên trong giao tiếp khi phải dừng lại suy xét, tìm ra ngôn ngữ thích hợp.
Một nghiên cứu khác cho thấy, việc học ngôn ngữ thứ hai, không ít thì nhiều cũng sẽ làm ảnh hưởng đến ngôn ngữ thứ nhất, hay còn gọi là chứng mất ngôn ngữ. Các triệu chứng và mức độ nghiêm trọng của chứng mất ngôn ngữ ở những người đa ngôn ngữ còn phụ thuộc vào số lượng ngôn ngữ mà cá nhân đó biết, trình tự họ học chúng và do đó chúng có được lưu trữ trong não không, độ tuổi mà họ học chúng, tần suất sử dụng mỗi ngôn ngữ và mức độ thành thạo của cá nhân trong việc sử dụng các ngôn ngữ đó. Càng về sau này, số lượng trẻ em ở Việt Nam được học tiếng Anh từ nhỏ, song song với tiếng Việt là ngày càng lớn. Nên việc tiếng Anh làm ảnh hưởng đến việc giao tiếp bằng tiếng Việt là hoàn toàn có thể hiểu được. Còn việc có người sử dụng tiếng Anh bồi, có người không, còn phụ thuộc vào trình độ của mỗi người, môi trường sống, độ tuổi và hoàn cảnh giao tiếp.
Một lý do khác, tiếng Việt là một ngôn ngữ không nguyên bản và chưa hoàn chỉnh. Tiếng Việt chịu rất nhiều ảnh hưởng từ tiếng Hán và ngôn ngữ phương Tây, “di sản” còn xót lại từ thời gian Việt Nam bị xâm lược. Bằng chứng là những từ như “âm dương”, “vạn tuế”, “lì xì”,… đều được mượn từ tiếng Hán, hay những từ như “pa-tê”, com-lê”, “cờ-lê”,… được mượn từ tiếng Pháp. Đây là một văn hoá đã in sâu vào ngôn ngữ từ lâu đời, lưu truyền từ thời ông bà, cha mẹ chúng ta cho đến tận bây giờ. Ngoài ra, có một số từ chuyên ngành hay cụm từ tiếng nước ngoài mà tiếng Việt không (hoặc chưa) thực sự có một từ để dịch sát nghĩa hoàn toàn hoặc diễn giải được hết sắc thái của từ đó. Ví dụ như từ “forelsket” trong tiếng Anh, nghĩa là cảm giác lâng lâng khi yêu, quay cuồng không còn biết gì, thường gặp nhất trong những mối tình đầu. Hoặc từ “dépaysement” trong tiếng Pháp, mô tả cảm giác mất phương hướng và bối rối mà bạn cảm thấy khi đang ở một đất nước xa lạ. Nó không chỉ được sử dụng cho các tình huống về sự thay đổi về thể chất, nó cũng có thể được sử dụng để chỉ sự thay đổi trạng thái tinh thần hoặc tình cảm do kết quả của một sự kiện trong đời. Không có một từ hay cụm từ nào ở tiếng Việt miêu tả được trọn vẹn các cụm từ này ở tiếng Anh hay tiếng Pháp. Vậy cách giải quyết nào là hợp lý hơn? Giữ nguyên cụm từ ấy để mang lại đúng cảm giác mình muốn truyền đạt hay cố gắng dịch ra tiếng Việt khiến cuộc trò chuyện dài dòng và thậm chí gây khó hiểu?
Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt
Một số cá nhân cho rằng việc nói chuyện “nửa nạc nửa mỡ” này làm mất đi sự trong sáng của tiếng Việt. Để nói sử dụng ngôn ngữ như thế nào là trong sáng thì còn phải phụ thuộc vào ngữ cảnh giao tiếp và ý đồ của người nói. Bạn nói tiếng Việt chêm tiếng Anh với mục đích khen ngợi cô bạn thân hôm nay nhìn rất fabulous vẫn trong sáng hơn nhiều so với việc bạn dùng cả câu tiếng Việt để lăng mạ người khác đúng không?
“Dụng ý là động cơ của ngôn ngữ”
Một câu hỏi khác được đặt ra ở đây là “Vậy đồng hoá ngôn ngữ là nên hay không nên?” Mỗi ngôn ngữ mang theo cả một nền văn hoá của đất nước đó. Nghĩa là nếu một ngôn ngữ bị tuyệt chủng, cả nền văn hoá gắn liền với ngôn ngữ đó cũng biến mất theo. Trước đây, đã có những nhà ngôn ngữ học tạo ra một loại “quốc tế ngữ” cho tất cả mọi người trên thế giới có thể dùng nhưng cũng dần bị cho vào quên lãng. Hay cố gắng đồng hoá ngôn ngữ của những người nói tiếng Anh muốn đưa ngôn ngữ của họ thành ngôn ngữ quốc tế. Thử tưởng tượng một đất nước đa văn hoá như Mỹ, nhưng những người muốn nhập cư vào đất nước này chỉ được phép sử dùng tiếng Anh. Không sớm thì muộn, nước Mỹ sẽ xoá đi bản sắc văn hoá cộng đồng phong phú mà họ vốn có. Mỗi ngôn ngữ đều là một tính cách khác nhau: sử dụng tiếng Pháp để làm thơ thì sẽ lãng mạn hơn là tiếng Đức, hay sử dụng tiếng Nga để viết một văn bản chính trị sẽ mang cảm giác răn đe hơn so với tiếng Anh. Mỗi ngôn ngữ khác nhau sẽ đem lại những trải nghiệm khác nhau, thay vì cố gắng đồng hoá ngôn ngữ, hãy bảo tồn, lưu trữ và phát triển nó.
Suy cho cùng, mục đích cuối cùng của giao tiếp vẫn là giúp người nói và người nghe có thể hiểu được nội dung mà đối phương đang muốn truyền đạt. Ngôn ngữ cũng chỉ là một thể loại công cụ và giao tiếp là quá trình sử dụng công cụ đó. Nếu bạn không dùng công cụ này, thì dùng công cụ kia. Giỏi hơn nữa thì dùng cả hai cùng lúc. Miễn là cả hai có thể hiểu nhau đang muốn nói gì. Giao tiếp giúp đưa con người và các nền văn hoá lại gần nhau hơn. Điều này đến từ cả hai hướng, người nói và người nghe. Đừng chỉ tôn vinh mỗi tiếng mẹ đẻ mà quên đi những ngôn ngữ khác. Nói qua cũng phải nói lại, việc sử dụng tiếng Anh bồi là một thói quen vô thưởng vô phạt. Người nói nên quan tâm đến ngữ cảnh trong giao tiếp và quan sát đối tượng mình đang muốn tiếp cận là ai để lựa chọn mạng lưới ngôn ngữ phù hợp tránh gây hiểu lầm hay khó chịu đối với người nghe nhé.




Comments